Xã hội công dân (Civil society) là hình thức liên kết các cá nhân nhìn từ góc độ “tư, cá thể”, tổng thể các mối quan hệ, lợi ích của cá nhân với cá nhân, tổng thể những cấu trúc xã hội, kinh tế, văn hóa, tôn giáo, gia đình, địa lí… vận hành trong một môi trường xã hội nhất định ở bên ngoài sự can thiệp của nhà nước, là “luật chơi” của những chủ thể khác nhau với những hoạt động vừa có tính cá thể, vừa có tính xã hội.
Xét theo nguồn gốc, khái niệm “xã hội công dân” đã được dùng trong tác phẩm “Poliiikê” (chính trị) của Arixtôt, người được C. Mác xác định là nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại. Arixtôt phân biệt các hình thức tập hợp người khác nhau như gia đình, dòng họ, làng xóm, nhà nước, xã hội. Đồng thời, Arixtôt cũng nhận ra sự cần thiết phải hạn chế sự can thiệp của nhà nước vào một số lĩnh vực thuộc đời sống riêng tư của công dân như gia đình hoặc đời sống tinh thần riêng của công dân như tôn giáo, tín ngưỡng. Trong thời cổ đại ý niệm về “xã hội công dân” cùng hình thành và ra đời với khái niệm “civis” (công dân), “civifu” (xã hội)”. Bước chuyển từ ý niệm về xã hội công dân nâng lên thành một khái niệm mang tính triết lí – pháp luật lần đầu tiên được thể hiện một cách rõ ràng và nổi bất trong tác phẩm của nhà triết học người Anh Tômat Gôpxơ (1588 – 1679) “De cive” (Bàn về công dân) xuất bản năm 1642 và “Levia than” (con quái vật) xuất bản năm 1651.
Xã hội khác với nhà nước, là một hình thái cộng đồng luôn luôn tồn tại, nhưng xã hội công dân chỉ xuất hiện trong quá trình và từ kết quả của việc tách nhà nước ra từ các cấu trúc xã hội khác và đồng thời, nhờ đó một loạt các quan hệ xã hội được “phi nhà nước hóa”. Nhìn từ phương diện đó thì có thể thấy chính trong quá trình hình thành và phát triển của xã hội công dân, nhà nước và pháp luật càng phát triển, hoàn thiện như trong xã hội hiện đại.
2. Xã hội công dân được hình thành và phát triển như thế nào?
Sự hình thành và phát triển của xã hội công dân đến nay đã được mấy thế kỉ và đương nhiên quá trình đó chưa kết thúc.
Những yếu tố cá biệt của xã hội công dân xuất hiện khá sớm tại một số quốc gia cổ đại (Hy Lạp, La Mã), nơi mà sự phát triển của các nghề thủ công và thương mại làm phát sinh sản xuất hàng hoá – tiền tệ được thể chế hóa về mặt pháp luật và được khẳng định trong một loạt các chế định của ngành luật tư (dân sự, đặc biệt là pháp luật dân sự La Mã). Nhưng đó chỉ mới là những yếu tố cá biệt của xã hội công dân chỉ tổn tại ở một số vùng song song với các cấu trúc xã hội tầng lớp – đẳng cấp theo chiều dọc.
Sự hình thành xã hội công dân ở một loạt các quốc gia ở các vùng rộng lớn của châu Âu, châu Mĩ bắt đầu ở thời cận đại. Tính từ thời điểm đó, các xã hội công dân đã và đang phát triển trải qua ba thời kì. Bước chuyển đổi từ giai đoạn trước qua giai đoạn sau được đánh dấu bằng những thay đổi cơ bản của chế độ nhà nước, xã hội với những biến động xã hội và chính trị thực sự sâu sắc, với các phong trào quần chúng, những xung đột giai cấp và cả những thay đổi sâu sắc của hệ ý thức xã hội.
3. Thực trạng xã hội công dân ở Việt Nam hiện nay
– Về chính trị – xã hội:
Việt Nam hiện tiếp tục cải tiến chế độ bầu cử các cơ quan dân cử, bảo đảm cho cử tri tiếp xúc, đối thoại với ứng cử viên. Các đại biểu phải định kỳ báo cáo và chịu sự kiểm tra, giám sát của cử tri, nếu không đủ tín nhiệm thì cử tri thực hiện quyền bãi miễn. Có các hình thức để nhân dân có thể dự thính hoặc theo dõi trực tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng các kỳ họp của cơ quan dân cử. Cải tiến cách thức để nhân dân tham gia thảo luận và góp ý kiến vào các dự án luật, các dự thảo nghị quyết quan trọng của Đảng và Nhà nước.
Việt Nam hiện nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan dân cử. Các cơ quan hành chính nhà nước phải nghiêm túc chấp hành các quyết định của cơ quan dân cử trong trách nhiệm, quyền hạn đã được pháp luật quy định và chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan dân cử.
Nhiều năm qua, trên cơ sở đường lối, chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước, cấp uỷ đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể chính trị – xã hội đã nỗ lực lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiều mục tiêu có hiệu quả. Thông qua hệ thống tổ chức và lực lượng thành viên, hội viên của mặt trận và các đoàn thể về tận thôn, làng, tổ dân phố, các chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước nhanh chóng đến được với mọi người dân. Bằng khả năng tập hợp và tổ chức các phong trào quần chúng, mặt trận và các đoàn thể cùng cộng đồng dân cư phát huy vai trò tương thân, tương ái, huy động tinh thần và lực lượng mọi tầng lớp dân cư để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xã hội đối với từng nhóm đối tượng cụ thể. Mặt trận, đoàn thể đã huy động tiền, của, công sức từ cộng đồng để chăm lo cho nhiều đối tượng cần giúp đỡ.
Nhà nước hết sức tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận của các bên tham gia quan hệ, chỉ can thiệp khi có yêu cầu hoặc khi phương hại đến lợi ích của nhà nước, của tập thể, xây dựng cơ sở hạ tầng như giao thông, y tế, giáo dục, văn hóa … để nâng cao dân trí, đặc biệt là nâng cao trình độ ý thức hiểu biết pháp luật, tôn trọng pháp luật của công dân, tạo điều kiện để công dân tham gia sâu rộng vào đời sống chính trị, pháp lý của đất nước, định hướng thông tin để nhân dân hiểu đúng bản chất của các nguồn thông tin trong nước và quốc tế, đa dạng hóa và thực hiện tốt các hình thức dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia rộng rãi vào quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội trong khuôn khổ pháp luật.
– Về luật pháp:
Quá trình hình thành và xác lập xã hội công dân hiện nay ở nước ta, đó là quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, và pháp luật là cơ sở hình thành xã hội công dân, nó quy định các quyền và nghĩa vụ của công dân đối với nhà nước cũng như quy định các quyền và nghĩa vụ của nhà nước đối với công dân. Khi một công dân có hành vi vi pháp pháp luật thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, khi cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước có hành vi vi phạm pháp luật phương hại đến lợi ích nhà nước, lợi ích chính đáng của công dân cũng phải chịu trách nhiệm pháp lý, vì thế luật thực định của nước ta có những quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước và cán bộ công chức khi có hành vi vi phạm hiến pháp và pháp luật (Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước, Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật cán bộ công chức …).
– Về kinh tế:
Quá trình xây dựng xã hội công dân còn là quá trình thúc đẩy và hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng các hạ tầng cơ sở để cung cấp các dịch vụ công cộng. Quan hệ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một yếu tố quan trọng của việc thực hiện xã hội công dân, là cơ sở kinh tế của xã hội công dân, bởi vậy nhà nước ta đã và đang xác lập và thực hiện một loạt các biện pháp tổng hợp để mở rộng các quyền tự do kinh doanh trong các lĩnh vực sản xuất, thương mại, lao động, tín dụng, vv.. của các chủ thể sản xuất kinh doanh trong xã hội, nhà nước thực hiện chức năng quản lý bằng pháp luật đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong xã hội.
4. Đánh giá tình tình xã hội công dân ở Việt Nam hiện nay
– Về chính trị – xã hội:
Việc phát huy dân chủ ngoài xã hội còn nhiều hạn chế, một bộ phận nhân dân còn bức xúc, khiếu kiện phức tạp. Số lượng đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến các cơ quan chức năng, như Ban Dân nguyện của Quốc hội, Thanh tra Chính phủ còn rất cao, nhưng tỷ lệ đơn, thư được giải quyết chưa được như mong muốn. Nhận thức, phương pháp và cách thức chỉ đạo tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong phát huy quyền làm chủ về chính trị, kinh tế, xã hội, quyền dân sự còn những mặt hạn chế. Chưa kể đến tình trạng tham nhũng còn tồn tại trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chính sách xã hội ở nước ta còn nhiều hạn chế cần được khắc phục. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Sự phát triển các lĩnh vực, các vùng, miền thiếu đồng bộ. Việc giải quyết một số vấn đề xã hội chưa hiệu quả; mục tiêu xây dựng quan hệ hài hòa giữa các lĩnh vực, ngành nghề, vùng, miền chưa đạt yêu cầu; giảm nghèo chưa bền vững, chênh lệch giàu – nghèo và bất bình đẳng có xu hướng gia tăng. Chưa nhận thức đầy đủ vai trò của phát triển xã hội hài hòa, chưa có chính sách, giải pháp kịp thời, hiệu quả đối với vấn đề biến đổi cơ cấu, phân hóa giàu – nghèo, phân tầng xã hội, kiểm soát rủi ro, giải quyết mâu thuẫn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, an ninh cho con người”
– Về hệ thống pháp luật:
Mặc dù 10 năm trở lại đây, pháp luật về các tổ chức của XHCD nói riêng và cả hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung đã được hoàn thiện tương đối. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật còn nhiều chồng chéo, mâu thuẫn: Hệ thống pháp luật Việt Nam rất đa dạng về thể loại văn bản và khổng lồ về số lượng văn bản quy phạm pháp luật.
Pháp luật Việt Nam cũng thường xuyên thay đổi cho phù hợp với đời sống kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật chưa thực sự hiệu quả.
Tính minh bạch của hệ thống pháp luật còn hạn chế: Công báo của Trung ương và các tỉnh đã đăng tải khá đầy đủ, kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật. Các phương tiện thông tin đại chúng, cả hệ thống chính trị và xã hội đã có nhiều cố gắng tuyên truyền, phổ biến rộng rãi pháp luật. Như vậy, xét ở khía cạnh khả năng tiếp cận thì tính minh bạch của hệ thống pháp luật được bảo đảm tốt hơn. Tuy nhiên, xét ở tính minh xác, tính minh định thì hệ thống pháp luật vẫn còn thiếu tính minh bạch.
– Về kinh tế:
Quyền tài sản và các quyền khác trong kinh doanh đã được thiết lập cơ bản và vẫn tiếp tục cải thiện. Tuy nhiên, theo một số đánh giá quốc tế, cơ quan tư pháp của Việt Nam còn nhiều hạn chế và tình trạng tham nhũng vẫn là vấn đề cần được cải thiện.
Theo Hiến pháp 2013, Công dân được kinh doanh trong các ngành nghề mà pháp luật không cấm. Vài năm trở lại đây, việc khởi nghiệp ngày càng trở nên dễ dàng hơn và chi phí đăng ký kinh doanh cũng được cắt giảm nhưng nhìn chung các tiêu chuẩn quản trị doanh nghiệp và việc thực thi pháp luật lao động còn yếu. Các biện pháp kiểm soát bình ổn giá vẫn có hiệu lực đối với nhiên liệu, năng lượng, nước, tài nguyên thiên nhiên và dược phẩm,… từ đó tạo điều kiện phát triển kinh tế – xã hội và cải thiện đời sông của nhân dân. Tuy nhiên, trong tình hình dịch bệnh COVID-19, chính sách về kinh tế còn vấp phải nhiều khó khăn, trở ngại.
5. Giải pháp hoàn thiện phương hướng xây dựng xã hội công dân ở Việt Nam
– Về nhận thức: Tổ chức nghiên cứu, trao đổi giữa giới lãnh đạo, quản lý và giới nghiên cứu, và nhân dân để có nhận thức đúng đắn và khoa học về XHCD.
Bên cạnh đó, xây dựng, bồi dưỡng cơ quan, đơn vị và đội ngũ cán bộ quản lý có đủ phẩm chất, năng lực để hoạch định và triển khai có hiệu quả chính sách về xã hội công dân đi đôi với xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Chủ thể quản lý xã hội là những tổ chức, cá nhân xác định ở nhiều cấp, ngành, lĩnh vực, vùng miền, địa phương, với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau. Công việc quản lý phức tạp, có quan hệ đan xen; mặt khác, việc hoạch định và thực hiện chính sách xã hội không thể áp đặt chủ quan, thiếu căn cứ khoa học.
Do đó, cần xây dựng các cơ quan, đơn vị và đội ngũ công chức làm công tác quản lý nhà nước về chính sách xã hội có đủ phẩm chất, năng lực, bởi vì đây là lực lượng có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và kết quả thực hiện chính sách về XHCD.
– Yêu cầu về sự phát triển của XHCD ở nước ta rất lớn và khách quan. Đề nghị Đảng có chủ trương về xây dựng, phát triển và lãnh đạo xã hội công dân Việt Nam.
Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về phát huy dân chủ, xây dựng XHCD thành chính sách, pháp luật và tăng cường xây dựng, củng cố, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trên cơ sở cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, thể chế hóa Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII “Về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” để thực hiện đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chính phủ. Bộ máy phải được tổ chức gọn nhẹ, rõ về chức năng, quyền hạn và trách nhiệm, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương phải tạo điều kiện để người dân tiếp cận, dễ đối thoại, dễ kiểm tra, giám sát; huy động được tài năng, trí tuệ, sáng tạo của người dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Nhà nước phải bảo đảm và phát huy được quyền làm chủ thực sự của người dân, nhất là quyền tham gia xây dựng chính quyền, lựa chọn người đại diện cho mình và quyền sở hữu tài sản hợp pháp.
– Quốc hội cần khẩn trương ban hành, sửa đổi, bổ sung các luật, Nghị định,… liên quan đến XHCD, trước hết là Luật về hiệp hội, Luật biểu tình…làm cơ sở cho quản lý nhà nước đối với XHCD.
– Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội phát huy vai trò, vị trí của mình theo quy định của Đảng và các văn bản pháp luật để thực hiện tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội, nhất là những vấn đề liên quan đến phát huy dân chủ, đến quyền và lợi ích của các thành viên, đoàn viên, hội viên.